Thursday, August 2, 2018

Một phản biện

Dòng vốn nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vào nhiều có thể làm tăng giá đồng nội tệ. Ngược lại, khi dòng vốn vào đột ngột dừng lại hoặc các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi một quốc gia, đồng nội tệ của quốc gia này có chiều hướng mất giá.
Hình vẽ và kết quả hồi quy mà tác giả Nguyễn Đức Độ minh họa có vẻ như cho biết quan sát thứ hai. Nhưng ông ấy đưa ra kết luận ngược: Phá giá có thể kéo theo giải ngân FDI giảm, rồi tăng trưởng kinh tế giảm theo sau.
Chỉ bằng hồi quy đơn giản giữa sự thay đổi của tỷ giá hối đoái và tốc độ giải ngân FDI, ông ấy đưa ra kết luận mà nó thể hiện rõ cái "liều" của ông.
Một quốc gia đang ăn nên làm ra như Việt Nam thì dòng vốn nước ngoài vào nhiều cũng dễ hiểu. Nhưng đôi khi, dòng vốn dừng hoặc giảm đi, bởi có thể hai nguyên nhân sau. Thứ nhất, bất ổn kinh tế trong nước; giai đoạn 2009-2011 như tác giả bôi đỏ ở hình thứ hai, Việt Nam vừa hết suy thoái, lại đến lạm phát quá cao.
Thứ hai, sự tháo chạy vốn ra khỏi các quốc gia đang phát triển, do nhóm nước này gặp khủng hoảng hoặc các quốc gia giàu tăng lãi suất; giai đoạn 1997-1999, như tác giả bôi đỏ ở hình thứ hai, chứng kiến khủng hoảng tiền tệ châu Á.
Hệ quả là đồng tiền mất giá (có thể do ngân hàng trung ương không can thiệp hiệu quả), còn tăng trưởng kinh tế giảm sút.
Đồng Việt Nam mất giá chừng 1.5% so với đô la Mỹ tính từ đầu năm do nắm giữ đồng đô la hấp dẫn hơn nhờ lãi suất tăng. Hơn nữa, lạm phát 4% năm 2017 không quá cao đối với một nước đang phát triển, nhưng ít nhiều cũng tăng kỳ vọng mất giá tiền đồng (do cao hơn lạm phát ở Mỹ).
Trở lại bài viết của ông Nguyễn Đức Độ, nếu trục tung biểu thị sự biến động của giá VNĐ, thay vì FDI, có lẻ ông ấy đưa kết luận hợp lý hơn. Nhưng điều đó là chưa đủ. Dòng FDI còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa: cơ sở hạ tầng, môi trường kinh doanh, nhân lực, công nghiệp hỗ trợ ... Có thể phá giá đồng tiền có tương quan với FDI, nhưng các yếu tố này phải được kiểm soát.
Hơn nữa, các nhà đầu tư sẽ giàu có hơn tương đối khi mua sắm, trả lương ở Việt Nam khi VNĐ mất giá. Đằng này, ông ấy cho rằng "không ai muốn đầu tư vào một nền kinh tế khi mà chưa làm ăn gì đã bị lỗ nặng do đồng tiền mất giá mạnh. Hoặc ít nhất thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng trì hoãn quyết định giải ngân vốn của mình với lý do nắm giữ USD thêm ngày nào sẽ thu lợi thêm ngày đó mà không cần phải làm gì." Câu sau đá câu trước.

Friday, January 12, 2018

Định lý quanh quanh co co

Cô giáo dạy Toán lớp 8 có lần trêu đùa trước lớp rằng tôi đã phát minh ra "định lý quanh quanh co co". Ý của cô bài giải của tôi đã gần đưa ra điều cần phải chứng minh, nhưng tôi lại vòng vo làm lại từ đầu, khiến nó trở rối rắm, không đưa ra được câu trả lời cuối cùng.

Hôm nay đọc bài “Bẫy giá trị thấp” của ông Bùi Trinh trên báo Tia Sáng, nhớ lại chuyện cũ và cả chuyện mới đây. Tôi đã phản hồi một bài báo của ông cũng trên báo này nhưng ban biên tập im lặng. Vậy thử sử dụng "định lý quanh quanh co co", như ông sử dụng cụm từ "Bẫy giá trị thấp", tiếp tục bình luận về bài báo của ông xem sao.

Với câu hỏi liệu Việt Nam có thể đuổi kịp “hàng xóm” không? (“Hàng xóm” chỉ các quốc gia lân lận có thu nhập bình quân gấp Việt Nam nhiều lần như Thái Lan, Malaysia, Indonexia). Câu trả lời thông thường là tăng trưởng kinh tế dựa vào lợi thế so sánh. Tức là tận dụng lợi thế về nguồn lao động trẻ, đông đảo, về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý để phát triển các ngành, chẳng hạn, công nghiệp định hướng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động, nông nghiệp và du lịch. Những lợi thế này có tính động, có thể thay đổi, tùy vào mức độ phát triển của một quốc gia qua thời gian.

Ông Bùi Trinh đặt ra vấn đề khác: Việt Nam có đang rơi vào bẫy giá trị thấp (dẫn tới không theo kịp “hàng xóm”)? Theo ông Bùi Trinh, Việt Nam làm thuê cho doanh nghiệp nước ngoài, chứ không làm chủ, ngay trên sân nhà. Mà làm thuê thì đóng góp vào giá trị gia tăng thấp (kéo theo năng suất thấp). Do tiếp tục kiểu tăng trưởng này mấy chục năm qua, nên Việt Nam có thể rơi vào cái bẫy giá trị thấp – ai rơi vào đó rồi thì không thoát ra được. Vì vậy, tốt hơn và lẻ ra là chuyển qua ngành có giá trị cao (năng suất cao).

Tôi cũng cho rằng nền kinh tế Việt Nam rõ ràng phụ thuộc nhiều vào khu vực nước ngoài, đặc biệt những doanh nghiệp như Samsung. Phần của Việt Nam trong giá trị giá tăng ở doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu là tiền lương và thuế. Chúng đương nhiên mang lại giá trị thấp (mà ông cần chứng minh), nhưng đây không phải là cái bẫy. Việt Nam vẫn đang tăng trưởng khá tốt, ít ra một phần là nhờ tận dụng lợi thế lao động. Lao động nông thôn chiếm tỷ trọng lớn, còn tiềm năng để phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm. Tuy nhiên, không thể đuổi kịp “hàng xóm” theo kiểu đó được, rồi cũng phải chuyển từ khâu gia công, chế biến qua khu vực giá trị cao như khâu sáng chế, thiết kế, và dịch vụ bán hàng.

Đáng ra câu trả lời của tôi là không có bẫy nào, trái ngược với nhận định của ông Bùi Trinh. Nhưng cũng đồng ý với ông rằng phần đóng góp nhỏ của Việt Nam vào giá trị sản phẩm. Như cách giải quanh quanh co co của tôi năm xưa.

Cách đặt vấn đề của ông khiến câu trả lời của ông thiên lệch và của tôi không trọn vẹn.

Phong cách viết bài của ông Bùi Trinh thường là đặt sự việc đã ở thái cực, theo hướng xấu/bất lợi, và đưa ra đề xuất hướng ngược lại. Ví dụ trong bài này, ông phủ nhận/đánh giá thấp đóng góp của doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nhờ lợi thế nhân công giá rẻ từ khu vực nông thôn vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tích lũy vốn cũng như kinh nghiệm quản lý. Việt Nam đang tận dụng tốt lợi thế lao động rẻ. Chiến lược này có gì sai chứ trong khi chúng ta chưa có đủ nguồn lực vốn và con người có kỹ năng – chưa xuất hiện những lợi thế mới - để phát triển những ngành công nghiệp hiện đại hơn, mang lại giá trị cao hơn.