1, Chính sách thắt chặt tín dụng (tiền tệ thắt chặt) để giảm lạm phát đẩy lãi suất lên cao. Đi vay với lãi suất cao hơn, doanh nghiệp cắt giảm nhu cầu đầu tư mới máy móc, thiết bị, tiêu dùng của hộ gia đình giảm, hàng tồn kho tăng. Đến lượt doanh nghiệp cũng phải thu hẹp sản xuất, sa thải nhân viên vì vậy dẫn đến thất nghiệp tăng, tốc độ tăng trưởng thấp đi. Bởi vậy, trong ngắn hạn, có một sự đánh đối giữa thất nghiệp và lạm phát.
Ngược lại, với góc nhìn thiên về tổng cung, một số chuyên gia kinh tế, trong đó có ông Bùi Kiến Thành nhận định chi phí vay vốn cao là nguyên nhân của tình trạng lạm phát thời điểm đó, điều mà ông gọi là tình trạng đình lạm, vì vậy họ khuyến nghị chính phủ bằng cách nào đó phải giảm lãi suất cho vay
Lạm phát Việt Nam thuộc hàng cao nhất Châu Á, nên chính sách tiền tệ, thậm chí tài khóa thắt chặt là vô cùng cần thiết và đúng đắn để ổn định kinh tế vĩ mô. Tất nhiên, khi lạm phát bắt đầu hạ nhiệt thì NHTW nên cân nhắc nới lỏng chính sách để kéo lãi suất xuống. Công việc này phải được tiến hành thận trọng, chứ không vì thương hay vì DN kêu than, kêu khổ, nếu không lạm phát sẽ dễ bùng nổ trở lại.
Các yếu tố như sụt giảm đầu tư thêm và mở rộng sản xuất, sức mua kém, hàng tồn kho tăng đều thuộc tổng cầu. Cho thấy, chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát phát huy tác dụng. NHTW nên đưa ra thông điệp chính sách rõ ràng - lãi suất sẽ điều chỉnh theo đà giảm của lạm phát và cam kết hành động theo lộ trình để tạo lập niềm tin, điều chỉnh kỳ vọng của người tiêu dùng và DN.
Giảm lãi xuất thôi chưa đủ. NHTW và Chính phủ cần phải minh định chính sách để vãn hồi niềm tin thị trường, giảm độ bất định kinh tế vĩ mô, bởi vì rủi ro kinh tế vĩ mô làm xói mòn kỳ vọng lợi nhuận của DN.
2, Chính sách tiền tệ không gánh hết lỗi gây lạm phát - ông Bùi Kiến Thành
Ngược lại, với góc nhìn thiên về tổng cung, một số chuyên gia kinh tế, trong đó có ông Bùi Kiến Thành nhận định chi phí vay vốn cao là nguyên nhân của tình trạng lạm phát thời điểm đó, điều mà ông gọi là tình trạng đình lạm, vì vậy họ khuyến nghị chính phủ bằng cách nào đó phải giảm lãi suất cho vay
Lạm phát Việt Nam thuộc hàng cao nhất Châu Á, nên chính sách tiền tệ, thậm chí tài khóa thắt chặt là vô cùng cần thiết và đúng đắn để ổn định kinh tế vĩ mô. Tất nhiên, khi lạm phát bắt đầu hạ nhiệt thì NHTW nên cân nhắc nới lỏng chính sách để kéo lãi suất xuống. Công việc này phải được tiến hành thận trọng, chứ không vì thương hay vì DN kêu than, kêu khổ, nếu không lạm phát sẽ dễ bùng nổ trở lại.
Các yếu tố như sụt giảm đầu tư thêm và mở rộng sản xuất, sức mua kém, hàng tồn kho tăng đều thuộc tổng cầu. Cho thấy, chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát phát huy tác dụng. NHTW nên đưa ra thông điệp chính sách rõ ràng - lãi suất sẽ điều chỉnh theo đà giảm của lạm phát và cam kết hành động theo lộ trình để tạo lập niềm tin, điều chỉnh kỳ vọng của người tiêu dùng và DN.
Giảm lãi xuất thôi chưa đủ. NHTW và Chính phủ cần phải minh định chính sách để vãn hồi niềm tin thị trường, giảm độ bất định kinh tế vĩ mô, bởi vì rủi ro kinh tế vĩ mô làm xói mòn kỳ vọng lợi nhuận của DN.
2, Chính sách tiền tệ không gánh hết lỗi gây lạm phát - ông Bùi Kiến Thành
http://bee.net.vn/channel/4542/201109/Chinh-sach-tien-te-khongganh-het-loi-gay-lam-phat-1812023/
Lạm phát thấp thỏm quay trở lại, vì thế việc "in tiền, bơm tiền" lúc này quả là chuyện lạ, trừ khi chính phủ buộc phải cắt giảm đầu tư công. Hay như chưa kể các NHTM đang thừa tiền gửi, không dám cho DN vay vì ngại thêm nợ xấu, vậy NHNN cho họ vay thêm làm gì. Ông cũng nhầm chức năng thu thuế cho ngân sách của bộ Tài chính và chức năng in tiền và kiểm soát lạm phát của NHNN.
Tôi nghĩ rằng Chính phủ và NHNN cần quyết định nên giảm lạm phát hay cứu DN. Nếu cứu DN thì hy sinh lạm phát, cho nó quay lại "đỉnh cao châu Á" năm trước, và ngược lại. Dù hơi sốc và đau đớn vô cùng khi dùng các biện pháp cắt kỳ vọng lạm phát, nhưng không thể tránh khỏi trong 1, 2 năm tới (cùng có thể ngắn hoặc dài hơn); trong thời gian khó khăn này, Chính phủ còn cần phải thực thi chính sách phúc lợi dành cho người thất nghiệp. Sau khi đã chọn một mục tiêu rồi thi công khai, minh bạch để khôi phục lòng tin, giảm độ bất định và rủi ro chính sách vĩ mô, DN và hộ gia đình sẽ chi tiêu, đầu tư và sản xuất trở lại, một khi lạm phát trở về mức thấp, hợp lý.
Còn nếu muốn cả hai, tức cắt giảm lạm phát và vẫn cứu DN thì chỉ còn cách giải pháp "bơm và hút tiền" như trên. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ đạt được mức tăng trưởng thấp khi chi tiêu công giảm mạnh nhường chỗ cho chi tiêu gia đình và đầu tư tư nhân.
Lạm phát thấp thỏm quay trở lại, vì thế việc "in tiền, bơm tiền" lúc này quả là chuyện lạ, trừ khi chính phủ buộc phải cắt giảm đầu tư công. Hay như chưa kể các NHTM đang thừa tiền gửi, không dám cho DN vay vì ngại thêm nợ xấu, vậy NHNN cho họ vay thêm làm gì. Ông cũng nhầm chức năng thu thuế cho ngân sách của bộ Tài chính và chức năng in tiền và kiểm soát lạm phát của NHNN.
Tôi nghĩ rằng Chính phủ và NHNN cần quyết định nên giảm lạm phát hay cứu DN. Nếu cứu DN thì hy sinh lạm phát, cho nó quay lại "đỉnh cao châu Á" năm trước, và ngược lại. Dù hơi sốc và đau đớn vô cùng khi dùng các biện pháp cắt kỳ vọng lạm phát, nhưng không thể tránh khỏi trong 1, 2 năm tới (cùng có thể ngắn hoặc dài hơn); trong thời gian khó khăn này, Chính phủ còn cần phải thực thi chính sách phúc lợi dành cho người thất nghiệp. Sau khi đã chọn một mục tiêu rồi thi công khai, minh bạch để khôi phục lòng tin, giảm độ bất định và rủi ro chính sách vĩ mô, DN và hộ gia đình sẽ chi tiêu, đầu tư và sản xuất trở lại, một khi lạm phát trở về mức thấp, hợp lý.
Còn nếu muốn cả hai, tức cắt giảm lạm phát và vẫn cứu DN thì chỉ còn cách giải pháp "bơm và hút tiền" như trên. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ đạt được mức tăng trưởng thấp khi chi tiêu công giảm mạnh nhường chỗ cho chi tiêu gia đình và đầu tư tư nhân.
No comments:
Post a Comment