Sunday, August 24, 2014

Người đi chợ (Nguyễn Ngọc Tư)

Năm trước đưa thằng nhỏ đầu lòng thẳng vô lớp một chỉ tốn chai rượu nhập khẩu màu hổ phách, năm nay nhà trường nhận chuẩn quốc gia nên phải lót đường năm triệu cho con nhỏ em qua cỗng. Nói gì xa, góp tiền cúng đình cũng phải tăng gấp đôi coi mới được. Thằng em học đại học Mỹ thuật xong rồi, giờ ngồi vẽ bảng hiệu, xui nó ra mở quầy bán chữ nhiều tiền hơn, ai cũng muốn treo mấy chữ Tài Lộc trong nhà. Đá Bạc bị đem bán cho tư nhân làm du lịch rồi, họ sẽ san núi bạt rừng trồng mấy con rồng xi măng lên, sơn màu hàng mã cho coi. Vườn chùa ngoại thành đang bán mấy chỗ nằm đẹp, nhà có người già nên mua để sẵn, sau này biết đâu không còn đất.

Những câu chuyện bán mua rời rạc này chúng ta vẫn thường nhặt nhạnh trên báo, từ một cuộc cà phê hay trong lúc chờ xe rời bến. Cái giọng điệu của người góp chuyện cũng bình thản như cảm giác của người nghe. Dù hàng hóa trong những cuộc mua đi bán lại đó không phải mấy món thông dụng kiểu như gạo, rau, hay nắm xôi, cái áo. Bất cứ gì cũng là hàng hóa, lạ gì. Sống trong tâm thế của một kẻ đi chợ, và cả nước là một cái chợ khổng lồ, hàng họ đa dạng đến mức mua gì cũng có, kể cả mua thần bán thánh, chức tước, trinh tiết, thận người… chúng ta bớt bỡ ngỡ đi. Giống như câu mà trẻ con hay đùa, “trước còn mắc cỡ giờ đỡ nhiều rồi”. Người ta có thể mua dặm dài bờ biển để làm khu nghỉ dưỡng, mua một vùng đất để khai khoáng, mua cả dòng sông làm thủy điện, thậm chí biết đâu còn mua lại được mạng sống từ cái án tử hình...

Dừng lại vài phút ở chương trình tiêu dùng chán ngắt của truyền hình địa phương, thấy được lý do vì sao nó chán ngắt. Người xem bây giờ đâu chỉ quan tâm tới giá vàng thế giới, và mặt hàng thiết yếu đâu chỉ gạo với xăng. Họ rất muốn biết giá của bằng tiến sĩ, vị trí kế toán của một sở cấp tỉnh hay phó phòng cấp huyện… để mà nuôi nấng những giấc mơ, thứ giấc mơ mà chỉ cần đủ tiền sẽ thành sự thật. Sống chết cùng cái chợ khổng lồ này, ít nhiều chúng ta cũng thắc mắc giá thành thật sự của một công trình xây dựng trụ sở sau những rơi rụng, con đường nhập nhoạng trở về thành phố của một cô giáo vùng sâu, hay cánh cửa phía sau của cuộc đề bạt cán bộ…

Đôi lần chúng ta thấy giật mình, vô lý một chút, “Ủa, chỉ vì muốn con mình học ở cái trường tử tế, sao mình lại lọt vô chợ này ?” Trong cái không khí ngờm ngợp mặc cả, cái chợ mấy chục triệu người tồn tại bằng những điều vô lý cỏn con như vậy cộng lại. Cỏn con như vài thứ giấy tờ tùy thân sai, một bữa nọ rảnh rỗi muốn đi làm lại bỗng một người hỏi muốn nhanh lẹ không, mua thời gian đi, cũng rẻ. Cỏn con như chạy vào đường một chiều, anh cảnh sát ngoắc lại, nói anh cũng bán làm ngơ. Cỏn con như vào viện nằm, chị hộ lý bảo muốn chị cười thì phải mua. Vậy là thành người đi chợ. Lơ vơ vậy mà chuyên nghiệp lúc nào không hay. Không phải chỗ nào cũng trưng bày sáng loáng cũng treo bẹo cũng cất giọng rao ngọt lịm ai mua hong, cuộc bán chác đôi khi chỉ là cái nháy mát, cái bắt tay lặng lẽ, cùng với những thầm thì.

Không giống như cái chợ má hay ngồi bán mớ ngò gai, rau cần hái được trong vườn nhà để mua lại dầu hôi nước mắm, như một cuộc trao đổi cho nhau những gì mình có. Trong cái chợ hình chữ S buổi tranh tối tranh sáng này, có một thứ trật tự riêng của nó. Không phải ai cũng có cơ hội để bán mua. Chịu khó nghiêng ngó chút sẽ thấy có những đám người vào chợ phiên chẳng mua bán gì. Trôi dạt ra từ con sông đã bán làm thủy điện, từ cánh rừng đã bạt phẳng để đào quặng, từ vạt đồng sắp trở thành sân golf sang trọng bậc nhất nhì (của cái gì không cần biết, cứ nhất nhì là sướng)… Ngồi thành chùm thành bầy suốt phiên này đến phiên khác, họ xác nhận lại cái sự vô hình của mình là có thật.

Họ buồn. Cái buồn gần như không giải tỏa được. Nỗi buồn kiểu đó thường sinh ra vài tình cảm tiêu cực như muốn chết, không thì uất ức giận dữ, muốn đập phá. Chính quyền không sợ vì nghĩ vô hình thì làm được gì mà lo. Nhưng với con buôn chính trị sẽ nhận ra cái đám đông buồn phiền đó là một món hàng hời, mua rẻ thôi, hoặc chẳng tốn đồng nào, vì họ chỉ cần được nhìn thấy. Lịch sử đã từng xảy ra bao nhiêu cuộc rủ rê rồi, sức mạnh những người bị gạt ở bên lề nhiều khi không lường được.

Friday, August 15, 2014

Chuyện thu nhập bình quân

Hôm trước có bạn hỏi ý kiến về bài báo trên Đất Việt, được Dân Trí đăng lại: “Ngộ nhận GDP: Nhiều người Việt đang đi vay để... sống!”.

Kết luận đáng chú ý của bài là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người và thu nhập bình quân đầu người hoàn toàn khác nhau. Cụ thể, GDP bình quân đầu người năm 2012 khoảng 1755 USD, nhưng cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng thu nhập bình quân đầu người năm 2012 khoảng 1152 USD. Có điều gì khác nhau nhỉ?

Đọc bài phát hiện chuyên gia kinh tế Bùi Trinh nói sai (hoặc nhà báo tường thuật nhầm), chứ dẫu cho kinh tế đất nước đang gặp khó, làm gì có chuyện “đa số người dân không những không có để dành mà còn phải đi vay một phần để tiêu dùng”. Một số người có thể chi tiêu quá đà thật, nhưng xét tổng thể thì dân Việt mình có của để dành cũng khá lớn đấy chứ (Tỷ lệ tiết kiệm nội địa của Việt Nam năm 2012 là 31%).

Chính phủ chịu thâm hụt ngân sách lâu nay được bù bằng việc đi vay dân cư trong nước và nước ngoài thông qua phát hành trái phiếu, vay ODA. Do đó, nói chính phủ không có để dành mà còn phải đi vay để tiêu dùng thì trúng hơn.

Rồi tiếp tục đọc bài “Những ngộ nhận quanh chỉ tiêu GDP” trên Vneconomy cũng lặp lại sai lầm trên. Đọc kỹ lại phát hiện thêm cái sai ở bài báo đầu, chưa nói là bài báo sau cóp gần như nguyên nội dung của bài báo trước mà không dẫn nguồn, thậm chí cái tên chuyên gia cũng không được nói tới.

Hóa ra đúng là GDP bình quân đầu người và thu nhập bình quân đầu người hoàn toàn khác nhau. Song cái khác và sai sót ở chỗ là do số liệu được lấy từ hai cuộc điều tra khác biệt, GDP bình quân đầu người được Tổng cục Thống kê thu nhập và công bố hằng quý, năm trong Tài khoản Quốc gia, còn thu nhập bình quân đầu người được chuyên gia Bùi Trinh lấy từ … tổng hợp về Khảo sát Mức sống hộ gia đình năm 2012.

Từ cách hiểu sai như vậy, dẫn tới kết luận “Nhiều người Việt đang đi vay để... sống” sai nốt. Vì theo như bài báo đầu “tỷ lệ giữa tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đinh từ năm 2010-2013 luôn ổn định ở mức 70 – 72% GDP, như vậy có thể thấy mức tiêu dùng bình quân đầu người của dân cư năm 2012 khoảng 1229 USD ”, … “trong khi mức tổng thu nhập bình quân đầu người năm 2012 là 1152 USD”, mới nhìn vào, thì người đọc thấy trực trạng như thế đáng báo động, chi tiêu đã vượt quá thu nhập có được. Tuy nhiên, như nói ở trên, con số thu nhập 1152 USD của năm 2012 được lấy từ cuộc điều tra khác.

Và trên thực tế, GDP được dùng thường xuyên hơn để tính thu nhập bình quân đầu người (cũng có thể dùng tổng thu nhập quốc dân (GNI)). Chẳng phải người ta sử dụng phương pháp thu nhập để tính GDP còn gì.

Update: Ấn tượng lại về http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Thu-nhap-binh-quan-dau-nguoi-o-Viet-Nam-11093

Monday, July 14, 2014

Thành phố “Mặt trời”

Đà Nẵng đang vào mùa làm ăn. Khách du lịch đang đổ về các khách sạn và các điểm du lịch của thành phố. Khắp nơi, những khách sạn lớn nhỏ thi nhau mọc lên bất chấp lượng khách giảm hẳn từ thị trường khổng lồ Trung Quốc sau vụ việc nước này hạ đặt giàn khoan HD 981 ở vùng biển Việt Nam (cũng như các cuộc biểu tình phản đối ở một số tỉnh).

Vòng quay Mặt trời (nguồn: internet)
Ngân sách thành phố từng lao đao do ảnh hưởng của thị trường nhà đất im ả mấy năm về trước. Nay sự lạnh nhạt của nguồn khách Trung Quốc đã khiến cho giới kinh doanh tour đau đầu. Có thể nhận thấy đằng sau sự vươn lên ấn tượng và lung linh của thành phố Đà Nẵng là sự lệ thuộc về mặt kinh tế vào ngành du lịch, bất động sản và xây dựng.

Không dẫn chứng nào đâu xa, cứ nhìn vào một tập đoàn Sun Group mà lâu nay lúc ẩn lúc hiện tại các sự kiện khởi công, khánh thành rồi lại khai trương các dự án quy mô tầm khu vực. Tập đoàn này đã và đang đầu tư nhiều công trình lớn, trải rộng ngang dọc các khu vực nội và ngoại thành phố, từ Bà Nà Hills đến khách sạn InterContinental, từ khách sạn Novotel tới Premier Village, từ làng châu Âu sang khu đô thị sinh thái Hòa Xuân.

Thành phố sắp sửa có một biểu tượng mới "Vòng quay Mặt trời - Sun Wheel" - Top 10 vòng quay cao nhất thế giới – thuộc dự án công viên châu Á cũng của Sun Group. Vòng quay như tô thêm gam màu mới, nhưng liệu nó sẽ làm cho bức tranh kinh tế của thành phố trở nên khởi sắc và bền vững?

Nếu giới hạn phạm vi thu ngân sách, nói đến Quảng Ngãi nghĩ ngay đến Nhà máy lọc dầu Dung Quốc, Quảng Nam có ô tô Trường Hải thì nói Đà Nẵng biết cưng Sun Group không sai chút nào.

Wednesday, June 4, 2014

Phá giá tiền đồng để tỷ giá thực so với đồng đô la Mỹ giảm xuống?

Một bài phân tích hay của TS Phạm Sỹ Thành. Tôi tán thành lập luận của tác giả từ việc cải thiện năng suất, cải cách pháp lý (thủ tục hải quan và hàng rào kỹ thuật), đến chính sách công nghiệp phụ trợ nhưng có chỗ viết nhầm lẫn "Việt Nam có lẽ cần tiếp tục phá giá tiền đồng để tỷ giá thực so với đồng đô la Mỹ giảm xuống chứ không phải tiếp tục tăng lên như hiện nay".

Viết đúng phải là … để VND mất giá thực so với đồng đô la Mỹ chứ không phải tiếp tục lên giá như hiện nay (do NHNN vẫn đang duy trì chính sách tỷ giá ổn định, có điều chỉnh nhưng biến động nhỏ trong khoảng 1% năm, trong khi lạm phát Việt Nam cao hơn hẳn Mỹ và một số nước mấy năm qua). Nghĩa là khi phá giá tiền đồng đủ mạnh, cả tỷ giả danh nghĩa và thực tế đều tăng lên.

Dù mới đây, NHNN đã có động thái phá giá nhưng không đủ mạnh để chặn đà lên giá của tiền đồng so với đô la Mỹ. Nguyên nhân có thể là NHNN vẫn chưa thoát khỏi nổi ám ảnh lạm phát cao và lo ngại phá giá sẽ tác động tiêu cực đến DN nhập khẩu, đến công ăn việc làm của khu vực này. Phá giá có trái ngược với ưu tiên ổn định vĩ mô (mục tiêu kiểm soát lạm phát) của Chính phủ (và cả NHNN) hay không là chuyện khác và câu trả lời là không nhất thiết phải như thế. Lấy ví dụ, phát hành tín phiếu NHNN hay tăng dự trữ bắt buộc để hạn chế tăng cung tiền đồng do NHNN bỏ ra mua USD.

Chính sách ổn định tỷ giá lâu nay đã làm suy yếu sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu và với cả DN sản xuất cho nhu cầu nội địa. Trung Quốc là quốc gia hưởng lợi lớn nhất của chính sách ổn định tỷ giá, hàng nhập từ nước này với mẫu mã đa dạng, giá rẻ, chất lượng trung bình thấp, lấy ví dụ như hàng may mặc, đã có mặt khắp cửa hàng, chợ, siêu thị, tới các vùng miền xa xôi. Tương tự, nguyên nhiên liệu của ngành công nghiệp chế biến cũng được nhập từ Trung Quốc vì lý do giá rẻ hơn hàng nội hoặc hàng nhập từ nước khác.